Minh nguyệt chiếu nghê thường - Chương 7

Minh Nguyệt Chiếu Nghê Thường


Tác giả: Mộc Vũ Linh Âm
Biên tập: Triêu Nhan
Chương 7: Chơi lửa tự thiêu

Mình nghĩ cây trâm khắc mây của Triệu Thuyên nó giống thế này này :">

Tháng mười một, Giang Nam cũng đã vào đông, càng ngày càng lạnh.

Sáng sớm, Tử Du đẩy ra cửa sổ tăng phòng, không khí tươi mát trong lành ùa đến. Y vui vẻ nghĩ, quả nhiên trở lại Linh Ẩn Tự vẫn là thoải mái nhất.

Thích ý nheo lại mắt, y cầm lấy hộp đựng trà, quyết định ngày hôm nay sẽ đến đình Lãnh Tuyền ở sườn núi dùng điểm tâm sáng.. Hộp trà cầm trên tay, nhẹ như bông, quả nhiên là uống hết rồi. Trà ngon thật không nỡ uống nha. Y đau lòng nhíu mày, cầm lấy một hộp gấm khác trên bàn, do dự một chút mới mở nắp hộp ra.

Mùi hương thoang thoảng toả ra tứ phía, bên trong hộp gấm đúng là trà Bạch Vân thượng hạng, là trà cống Cốc Vũ mà lần trước đại sư trụ trì chùa Thượng Thiên Trúc đã tặng.

Trung thu đêm đó, y từng có ý định tặng trà cho Triệu Thuyên làm lễ vật, nhưng cuối cùng vẫn nói là đã uống hết, không có tặng, chỉ lấy một nhúm lông vũ bạch hạc đem tới làm trò cười.

Bởi vì, chính y cũng không nỡ uống…

Lẳng lặng nhìn một lát, Tử Du thở dài, nhẹ nhàng đậy lại nắp hộp.

Nghĩ kỹ rồi, có lẽ không nên động tới nó thì hơn. Ha ha, y nhớ rõ ở chỗ phương trượng vẫn còn thừa lại một ít trà Hương Lâm, hay là mình đến đó lừa một ít mang về. Dùng với bánh ngọt làm bữa sáng, dù là thần tiên cũng không thể sánh bằng.

Chậm rãi bước ra khỏi cửa phòng, bỗng nhiên vang lên một tiếng hạc kêu. Tử Du nghe tiếng quay đầu lại, nhìn thấy một con hạc màu xám tro vừa nhỏ vừa gầy ngẩng đầu bước tới, mỏ há ra, liền ngậm lấy vạt áo tăng của y.

Tử Du đứng lại, cười khổ, túm lấy áo choàng của mình kéo trở về, nhưng mà con hạc xám kia không nhả ra. Một người một chim, lôi lôi kéo kéo, cuối cùng “rẹt” một tiếng, vạt tăng bào cũ kỹ bị rách một đường thật dài.

Gân xanh nảy lên đầy đầu, Tử Du vẻ mặt đầy hắc tuyến. Con hạc xám kia dường như cũng biết mình gây họa, vỗ vỗ cánh, cúi gằm mặt xuống.

Một vị tăng trong chùa đi ngang qua cửa, bèn che miệng cười: “Thánh cư sĩ, Ám Hương của ngài mới sáng sớm đã đến xin ăn rồi!”

Từng cơn gió lạnh xuyên thấu qua tăng bào rách nát thổi vào người, cho dù là một cao nhân của Thiền tông, nhưng thời tiết mùa đông khắc nghiệt như vậy, Tử Du thực sự cảm thấy cả người lạnh đến phát run. Nhìn con hạc xám Ám Hương đang đứng bên cạnh cúi đầu nhận tội, nhưng nhất quyết nếu không có thực vật là không chịu đi, mí mắt y không khỏi giật mấy cái. Ai, cái tên Triệu Thuyên kia, chẳng khi nào làm được chuyện gì tốt!

Thì ra, con hạc xám này là do Triệu Thuyên đưa tới buộc y nuôi.

Ngoại hình của con hạc này rất khác so với Sơ Ảnh, thể hình có chút nhỏ bé xinh xắn, lông chim toàn thân cũng không trắng tuyết như lông Sơ Ảnh, mà lấy màu xám làm chủ đạo, lông đầu, cổ, ngực và đuôi là màu đen. So với vẻ đẹp đẽ tuấn dật của Sơ Ảnh, bề ngoài của nó xem ra ảm đạm hơn nhiều. Nhưng mà, lông cổ nó rũ xuống, xù ra lại bồng bềnh, thuần một màu không tì vết, lại hơn Sơ Ảnh một phần thanh nhã đoan trang.
Loài hạc này cực kỳ hiếm thấy, Triệu Thuyên không biết từ nơi nào tìm được, thuần dưỡng cẩn thận rồi mới đem tặng, còn đặt tên là “Ám Hương”, lấy ý từ câu thơ “Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển, ám hương phù động nguyệt hoàng hôn.” (Bóng cây thưa vắt ngang dòng nước, hương thầm đưa đẩy trăng hoàng hôn.) mà ra, đơn giản là đặt cho có đôi có cặp với Sơ Ảnh.

Đối với một kẻ da mặt dày tới chết còn muốn ăn đậu hũ, chiếm tiện nghi ngoài miệng như Triệu Thuyên, Tử Du cũng chỉ có thể thở dài than ba tiếng bất đắc dĩ, nhận lấy hạc xám Ám Hương. chiến tranh Kim Tống hết sức căng thẳng, mà giang hồ ngược lại có vẻ bình lặng trước khi giông bão ập tới, y mừng rỡ tiêu dao, quay về thường trú tại Linh Ẩn Tự, nhàn cư nuôi hạc, hết sức thích ý.

Thế nhưng, rốt cuộc, kẻ khiến người ta phải đau đầu nhất lại chính là con hạc mà Triệu Thuyên cho y!

Y vốn là một người đã nửa xuất gia, là không thể an nhàn thoải mái nuôi sủng vật, thế nhưng Thái Hoa Hầu lại nhất quyết tặng cho y, thấy con hạc xám này tính tình cũng có vẻ ngoan ngoãn, y bèn miễn cưỡng nhận nó.
Nhưng mà, từ Thái Hoa cung cẩm y ngọc thực đi tới Linh Ẩn Tự chỉ có cơm rau dưa, cho dù là đối với một con chim mà nói, cũng là vô cùng khó thích ứng! Ở Thái Hoa cung, Ám Hương được ăn cá tươi tôm sống mà bốn mỹ tỳ Mai Lan Trúc Cúc tỉ mỉ chọn lựa, trong khi ở Linh Ẩn Tự, có cơm thừa ăn đã là tốt lắm rồi. Cho nên lạc thú lớn nhất của nó, ngoại trừ việc bay tới dòng suối nhỏ trong núi để kiếm thức ăn thì chỉ còn lại mỗi buổi sáng chạy đến trước tăng phòng của Tử Du ăn vạ điểm tâm thôi!

Người xưa nói ”Từ xa xỉ khó vào giản dị” quả thật không hề sai chút nào. Cho dù là một con chim cũng như vậy.

Đối mặt với con chim, Tử Du cũng hết cách, đành trở về phòng thay y phục rồi dẫn nó xuống nhà bếp, lấy mấy món chay ra cho nó ăn no, lúc này mới thở phào nhẹ nhõm. Nhấc chân vừa định đi vào núi, bầu trời lại đột nhiên vọng xuống tiếng hạc kêu trong trẻo. Bạch hạc Sơ Ảnh giương cánh nhẹ nhàng bay tới. Hôi hạc Ám Hương thấy thế, vội vàng rụt cổ, trốn ra sau lưng Tử Du.

Vì vậy, hai con hạc bắt đầu đuổi bắt vòng vòng quanh thân Tử Du, Sơ Ảnh nhiệt tình như lửa không ngừng vỗ cánh, Ám Hương lại xấu hổ tránh trái né phải, lông trắng lông xám rụng đầy sân…

Tử Du bỗng nhiên sửng sốt, ba hàng hắc tuyến thẳng tắp xuất hiện trên trán…

Cái kiểu ở chung của hai con hạc này, vì sao thoạt nhìn… Lại quen thuộc như vậy?

…Cẩn thận ngẫm lại, chẳng phải là phiên bản của cái tên Triệu Thuyên kia, có đánh chết cũng cứ quấn lấy mình lại còn hay đối với mình động tay động chân, trêu chọc đùa giỡn?

Đáng giận! Khó trách hắn chết sống cũng muốn tặng Ám Hương cho mình!

Trên chân Sơ Ảnh đương nhiên là mang theo thư Triệu Thuyên gửi tới. Tử Du mở giấy viết thư, chữ chi chít rậm rạp đầy cả giấy, đều là những lời tâm tình sến súa buồn nôn, y nhìn mà chỉ muốn trợn trắng mắt. Trình độ mặt dày của tên này, thật đúng là trước sau như một, kiên trì không tha!

Khóe môi nhịn không được khẽ cong lên, Tử Du cười đến híp mắt. Từ lúc chia tay hôm Đản thần sơ tổ mồng năm tháng mười, y và Triệu Thuyên đã có hơn một tháng không gặp mặt. Thấy hắn cao hứng viết cho mình một bức “thư tình” buồn nôn như vậy, trong lòng lại xuất hiện một chút xao xuyến lạ lùng. Thật ra y và Triệu Thuyên quen biết đã nhiều năm, hai người đều bề bộn công việc trong môn phái hoặc giang hồ đại sự, cho dù một năm rưỡi không gặp mặt cũng là chuyện thường, những lúc đó đều dựa vào Sơ Ảnh truyền thư báo một tiếng bình an là được. Nhưng mà lần này xa cách chỉ mới một tháng, y lại cảm thấy “nhớ”, hơn nữa, thứ tình cảm xa lạ này cứ âm ỉ dưới đáy lòng, càng ngày càng nồng đậm…

Thiền tâm xao động, y đã không thể quay về với tâm cảnh đương sơ như trăng nơi đáy giếng được nữa.

Đáng sợ hơn là, y lại không cảm thấy có gì không tốt, trái lại trong lòng cảm thấy ngọt ngào không hiểu được.

Bàn tay lần tìm trong ngực, y lấy cây trâm ngọc ra. Ngọc bích sáng bóng không tì vết, được thợ thủ công khéo léo tỉ mỉ khắc thành hình đám mây ở đầu trâm, thanh nhã lại giản dị, đây vốn là cây trâm gài tóc mà Thái Hoa Hầu Triệu Thuyên xưa nay rất yêu thích. Đản thần sơ tổ ngày đó, hai người bọn họ ra khỏi miếu Nguyệt lão, bên cạnh Tam Sinh thạch, Triệu Thuyên gỡ xuống cây ngọc trâm trên tóc mình, tự tay vấn mái tóc dài của y lên. Sau đó, hắn cúi xuống…

Cảm xúc ấm áp trên môi rõ ràng như thể mới xảy ra ngày hôm qua, hai má Tử Du nóng bừng, mặt đỏ tới mang tai.

Khi đó, tâm tình của y xao động, ý loạn tình mê, mặc cho Triệu Thuyên hôn, hoàn toàn không phản kháng. Bởi vì, truyền thuyết Tam Sinh thạch được Triệu Thuyên thầm thì kể lại, phảng phất như đó thật sự là kiếp trước của hai người bọn họ, bi thương và tiếc nuối. Y không cách nào cự tuyệt một Thái Hoa như vậy.

“Ôi chao ôi! Tử Du, thật hiếm khi thấy vẻ mặt của ngươi như vậy. Hoá ra Thánh cư sĩ cũng không phải là không dính khói lửa trần gian nha.” Tiếng cười bỡn cợt từ xa truyền lại, Tử Du theo bản năng ngẩng đầu, liền thấy Tà dược sư Lý Tư Nam mặc một thân áo đen đang đi tới.

Trong lòng giật thót một cái, Tử Du vội vàng giấu ngọc trâm đi. Lý Tư Nam mắt sắc, đã sớm nhìn thấy, nhưng lập tức nhìn sang chỗ khác, coi như không phát hiện.

“Ha ha, dược sư sao lại rảnh rỗi tới tìm ta? Đúng rồi, đã tìm được linh dược cho hài tử Trương Lăng kia chưa?” Tử Du trấn tĩnh lại, mỉm cười mở miệng như thường.

Thế nhưng Lý Tư Nam lại không giống bình thường bông đùa với y, ngược lại nhíu mày, vẻ mặt nghiêm túc, một lát, gã thở dài một hơi: “Tử Du… chuyện này để sau hãy nói, chúng ta đến Lãnh Tuyền Đình đi, đợi một lát còn có mấy người nữa tới.”

Trong lòng Tử Du cảm thấy không ổn, muốn hỏi thăm xem có phải thương tích của Trương Lăng đã xảy ra biến cố gì không, nhưng lời tới bên môi lại nuốt trở lại. Y loáng thoáng cảm nhận được việc này hẳn là có liên quan tới Triệu Thuyên, mà y có chút sợ hãi không muốn biết sự thật.

Hai người đều ôm tâm sự riêng, một đường im lặng đi tới Lãnh Tuyền Đình, ngơ ngẩn ngồi xuống. Tô Đông Pha có thơ viết: “Chẳng hay nước từ đâu chảy tới, sóng gầm như sấm đánh vào khe.” Tên gọi Lãnh Tuyền đình cũng chính là do bài thơ trên mới có.

Hai người ngồi đối diện không nói gì, bỗng nhiên nghe trong tiếng thác nước đổ ầm ầm loáng thoáng có tiếng tay áo đón gió xen lẫn với tiếng bước chân nhẹ nhàng từ xa tới gần. Hai người cùng quay đầu lại.

Người tới cao lớn hiên ngang, ngũ quan thâm thúy, đường nét góc cạnh, con ngươi thấp thoáng sắc xanh lam, đúng là dáng vẻ của người ngoại vực. Hắn mặc một thân áo gấm đỏ tươi, càng làm nổi bật làn da trắng như tuyết, vẻ mặt băng lãnh toả ra hơi thở chớ có lại gần.

Hắn là một trong Thế ngoại ngũ tuyệt, Thần binh thiên thành Chú kiếm sư.

Tử Du thoáng sửng sốt, lập tức cười nói.

“Kiếm sư, ngọn gió nào thổi ngươi tới đây vậy?” Chú kiếm sư là người quái gở lánh đời nhất trong năm người bọn họ, quanh năm ẩn cư trong thâm sơn làm nghề đúc kiếm, hầu như rất ít khi xuống núi, dù là việc mua dụng cụ đồ ăn cũng giao hết cho đệ tử. Hiện tại ngay cả hắn cũng tự mình xuống núi, có thể thấy được, nhất định là có chuyện lớn xảy ra.

Chú kiếm sư liếc y một cái, đi vòng qua y và Lý Tư Nam vào trong đình, ngồi ngay ngắn trên ghế đá, lặng im thật lâu, mới dùng một ngữ điệu cứng ngắc, không hề lên giọng xuống giọng mở miệng nói: “Một trận tà phong.”

Đỉnh đầu như có một đám quạ đen cạc cạc bay qua, Tử Du và Lý Tư Nam đồng loạt nổi lên gân xanh hắc tuyến, vẻ mặt không ngừng co quắp.

Thật đúng là một câu nói đùa lạnh tanh. Chú kiếm sư, ngươi quả không hổ danh là cao thủ tẻ ngắt nha!

Ba người đàn ông ngồi nhìn nhau, đang nghĩ đã muộn đến mức không thể muộn hơn, bỗng nhiên một tràng cười thanh thuý như tiếng chuông bạc vang lên: “A a, khoan thai tới trễ là đặc quyền của mỹ nữ, làm phiền các vị phải đợi lâu!”

Vừa dứt lời, một mỹ nữ xinh đẹp động lòng người xuất hiện ở đầu con đường núi. Mái tóc dài buông xoã, trên trán thắt một dải lụa năm màu rực rỡ, quần hoàng điệp chỉ dài vừa tới đầu gối, để lộ một đôi chân nhỏ lả lướt đi cùng giày bó da trâu. Bộ trang phục tương đối dã tính như vậy, phối hợp với vóc dáng thon thả cùng sóng mắt linh hoạt, lại toát lên vẻ phong tình đặc biệt.

Diệu thủ dịch nha Mỹ trù nương, rốt cuộc cũng tới rồi!

Thế ngoại ngũ tuyệt đã tới bốn người, tập hợp tại Linh Ẩn Tự, trong Lãnh Tuyền đình nho nhỏ, nhất thời, thật đúng là phong vân tế hội, cao nhân tụ tập.

Tử Du cảm thấy ngày hôm nay thật không tầm thường, hướng mắt về phía Lý Tư Nam, như thể chờ mong gã đưa ra đáp án.

“Tử Du, ba người chúng ta cùng nhau tới gặp ngươi, là bởi vì…”

Tà dược sư thu hồi vẻ mặt không đứng đắn, vung tay lên, trong rừng cây lại bước ra một người.

Đêm trăng tròn. Ngọc Long sơn ở Lâm An.

Tử Du đạp trăng mà đến, một thân tăng bào trắng thuần phảng phất như hoà lẫn vào sắc tuyết và ánh trăng. Mũi chân nhẹ lướt qua mặt đất vốn còn sót lại một tầng tuyết mỏng, dĩ nhiên không thấy một dấu chân dù là nhỏ nhất.

Đột nhiên gió đêm thổi mạnh, tiếng thông reo liên miên không dứt khắp núi đồi. Tử Du không khỏi dừng cước bộ, ngẩng đầu nhìn lên.

Ngày này là ngày rằm giữa đông, thế núi Ngọc Long vốn cao và dốc, trước hoàng hôn đã có một trận tuyết nhẹ buông xuống, lúc này tuyết còn chưa tan hết. Tán cây tuyết tùng trên khắp núi đều đọng lại một tầng tuyết lóng lánh như bạc. Gió đêm khẽ lay ngọn cây, vụn tuyết bay lất phất, điêu linh đáp xuống, y vội vàng nhắm mắt lại, có hạt băng rơi vào trên mi mắt, chỉ cảm thấy lông mi thật lạnh, không biết vì sao, cái lạnh dường như chậm rãi thấm vào tận đáy lòng.

Phía sau vang lên tiếng bước chân quen thuộc.

“Tử Du.” Bên hồ Thiên Nhất, một người áo tím khoác áo choàng lông hạc chậm rãi đến gần, ánh trăng chiếu trên mặt hắn, dung nhan tuyệt lệ tựa như thần tiên hạ phàm.

“…Đã lâu không gặp, phong thái của Thái Hoa vẫn như xưa.” Tử Du ôn nhu nói.

“Ôi chao?” Triệu Thuyên kinh ngạc trợn tròn mắt phượng: “Ta còn tưởng rằng Tử Du sẽ là người đầu tiên phân bào đoạn nghĩa với ta chứ!”

Tử Du mỉm cười nói: “Nói như vậy là ngươi rất chờ mong ta tuyệt giao với ngươi?”

Triệu Thuyên vội vàng cười làm lành: “Ai nha, Tử Du nói gì vậy. Tình ý của ta đối với Tử Du…”

“Trăng sáng có thể chứng giám sao?” Tử Du cắt đứt lời hắn, khóe môi cong lên, cười thật bất đắc dĩ. Thái Hoa Thái Hoa, ngươi mở miệng ngậm miệng đều là những lời này, thật thật giả giả, không chút đứng đắn, ta rốt cuộc nên tin ngươi hay là không tin ngươi đây?

Bỗng nhiên, không trung vọng lại một tiếng hạc kêu. Bạch hạc Sơ Ảnh thoáng nhìn thấy hôi hạc Ám Hương bên người Tử Du, liền vỗ cánh nhiệt tình bay qua.

Tử Du trong lòng biết không ổn, vịn trán thở dài. Chỉ chốc lát, lông trắng lông xám lại tung bay đầy trời.

“Ôi chao, tình cảm của Sơ Ảnh và Ám Hương thật là tốt.” Triệu Thuyên nheo mắt cảm khái.

“…Phải” Hứng thú của ngươi xưa nay như một, đúng là quái gở.

Bên hồ Thiên Nhất có một tòa lầu Thiên Nhất, mái cong chỗ đấu củng (một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ cột trụ chìa ra gọi là củng, và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu) treo tám chiếc đèn cung đình lưu ly, bên ngoài phủ lụa mỏng, ánh đèn mờ ảo có vẻ đặc biệt ấm áp nhu hoà trong đêm tối. Hai người đi vào trong đình, chỉ thấy cạnh chiếc giường gỗ lim có đặt lò sưởi, màn che rũ xuống, bốn phía ấm cúng dạt dào.

Tử Du do dự nhìn quanh một lát, mới ngồi xuống chiếc gối bằng tơ tằm, than thở: “Ngay cả một đình gác nho nhỏ dùng để nghỉ ngơi cũng xây dựng khí thế như vầy, thật đúng là phù hợp với cá tính xa hoa cực độ của Thái Hoa ngươi…”

“Ôi chao, Tử Du, việc gì phải nói đông nói tây? Có chuyện gì cứ nói thẳng ra đi.” Dưới ánh nến nhảy múa, Triệu Thuyên tựa người trên giường gấm, lười biếng mở miệng. Hắn nâng lên chén ngọc, nhấp một ngụm, mắt phượng lóng lánh, môi đỏ cong lên một vòng cung nghiền ngẫm.

Tử Du sửng sốt, nhất thời không biết phải nói gì.

Ngọc Long Sơn đứng giữa Tây Hồ và sông Tiền Đường, cách không xa đỉnh Kỳ Tú của Linh Ẩn Tự. Nhưng mà, hai người mặc dù quen biết nhiều năm, y vẫn không hề hay biết trên ngọn núi này cũng có Đạo quan của Do Long phái. Càng không phải nói, Triệu Thuyên rõ ràng là đã tới Lâm An mấy ngày, nhưng trong lá thư Sơ Ảnh mang đến cho y cũng không có một dòng nhắc tới, nếu không phải y viết thư ngỏ lời, sao có thể có cuộc gặp gỡ tối nay?

Từ trước tới nay đều là Thái Hoa Hầu mặt dày mày dạn chủ động dây dưa, rốt cuộc vì sao bây giờ thái độ lại đảo ngược?

Thở dài, y thẳng thắn đón nhận ánh mắt của Triệu Thuyên, đảo khách thành chủ nói: “Được rồi, ngươi không có gì muốn nói với ta sao?”

Ánh mắt hai người giao nhau, đối diện một lúc sau, Triệu Thuyên rũ xuống mi mắt, ý cười trên khoé môi càng sâu, dáng vẻ hết sức vô hại: “Ai nha, Tử Du, ngươi thật đúng là khắc tinh của bản hầu…” Nói đến cuối, lại biến thành một tiếng thở dài thật khẽ, cơ hồ không thể nghe rõ.

Tử Du lẳng lặng nhìn hắn, mím môi không nói.

Bầu không khí lặng yên, một lúc lâu, Triệu Thuyên phì cười một tiếng, buông chén rượu, chậm rãi nói: “Người đến chỗ ngươi tố cáo chính là tiểu tử họ Trương kia sao? Ôi chao, chẳng phải ta đã nói, bản hầu tự thấy đối với hắn đã hạ thủ lưu tình… Ta tuyệt đối không hại tính mệnh của hắn, chỉ bất quá…”

Tử Du cắt đứt hắn: “Sai rồi.”

“Ôi chao?”

Tử Du nhìn thẳng hắn, gằn từng tiếng: “Trương Lăng đến nay vẫn còn ở chỗ Dược sư, hôn mê chưa tỉnh, cho nên ta không hề nghe được bất cứ điều gì từ miệng hắn. Bởi vì hắn vẫn chưa chết, nên lời hứa của ngươi đối với ta tạm thời tính ngươi làm được, món nợ của ngươi với hắn đã có dược sư và bản thân hắn đến đòi.”

Ý cười ngưng trệ trên gương mặt tuyệt mỹ, đáy lòng Triệu Thuyên xẹt qua một dự cảm chẳng lành, miễn cưỡng nói: “Vậy Tử Du ngươi …”

“… Ngươi nhổ cỏ không tận gốc, đao hạ vong hồn còn sót lại một cái mạng, gã tìm tới Long Hổ Sơn Thiên Sư Đạo, Thái Hồ sơn trang, bọn họ đã hướng về Thế ngoại ngũ tuyệt chúng ta đòi công đạo!”

Mắt phượng đọng lại, hiện lên một tia không dám tin tưởng, Triệu Thuyên khàn giọng nói: “Đạo sĩ đó…còn chưa chết? Hay là hòa thượng kia?”

Tử Du cơ hồ đau lòng nhìn hắn: “Ngươi không có gì để giải thích sao?”

Biết chân tướng đã bị vạch trần, Triệu Thuyên ngược lại không cần phải cố kỵ nữa. Hắn đứng dậy đến gần, thoáng cúi người, đưa tay khẽ vuốt mái tóc xoã tung sau vai của Tử Du, chậm rãi nói: “Ngươi biết ta không có gì để giải thích.”

Nâng lên một lọn tóc, quấn quanh đầu ngón tay cẩn thận ngắm nhìn, trên gương mặt tươi cười ẩn tình của Triệu Thuyên là một vẻ bình thản. Hắn nhẹ nhàng mở miệng, ngữ thanh xa xôi, nhưng cũng rõ ràng không gì sánh được: “Tử Du, ngươi hiểu rõ vì sao ta làm như vậy, không phải sao?”

Tử Du không khỏi trầm mặc.

Ta hiểu rõ, sao ta lại không rõ…

Ngày ấy, ngươi lấy máu tẩy sông Hoài, trước hết giết đại tăng chính và Kim tướng lập uy, lại dùng một khúc nhạc khiến thủy sư quân Kim hôi phi yên diệt, sau đó, ra tay tàn nhẫn giết chết Thiên Cơ Tử và Nghĩa Đoan. Lại dùng mạng sống của quân binh uy hiếp, lệnh cho danh tướng thủy quân Lý Bảo gia nhập dưới trướng của ngươi.

Một loạt hành động mạnh mẽ quyết đoán, ngoan tuyệt quả cảm, rất có tác phong vương giả. Kẽ hở duy nhất, là hòa thượng Nghĩa Đoan của Tào Động Tông đã từng luyện Quy Tức công, thấy đại sự không ổn nhắm mắt giả chết, thừa dịp rơi vào trong sông thoát được một mạng. Sau khi trải qua cửu tử nhất sinh, gã tìm tới Long Hổ Sơn Thiên Sư Đạo và Thái Hồ sơn trang yêu cầu chủ trì công đạo.

Chú Kiếm Sư là tri kỷ hảo hữu của chưởng giáo Thiên Sư Đạo hiện nay, Mỹ trù nương với Thái Hồ trang chủ cũng từng có giao tình sinh tử. Mà khi đó, Dược sư cũng đã mang Trương Lăng hôn mê bất tỉnh từ Thái Hoa cung của ngươi trở về, nhưng mặc cho y trổ hết bản lĩnh vẫn không cứu tỉnh được niên thiếu kia. Cuối cùng, ba người bọn họ cùng tới tìm ta, muốn hỏi ta, ngươi rốt cuộc muốn làm gì.

Mà sau khi nghe xong Nghĩa Đoan khóc kể, ta lập tức hiểu được dụng ý của ngươi.

Đối mặt với loạn cuộc Tống Kim, ngươi thân là hậu duệ của hoàng tộc Đại Tống, là vương hầu không ngai, nhưng vẫn ẩn cư sơn lâm, không hỏi thế sự, nhìn như tiêu dao, nhưng bất quá là đang giấu tài, chờ đợi thời cơ, có đúng hay không?

Quân thần triều đình Nam Tống cầu an một góc, ca múa mừng cảnh thái bình, không biết đại nạn đã gần ngay trước mắt. Mà hoàng đế Kim quốc Hoàn Nhan Lượng dã tâm bừng bừng, muốn đưa quân xuống phía nam. Quân Kim dũng mãnh thiện chiến, quân Tống vốn suy nhược đã lâu nhất định khó có thể chống đỡ. Một khi đương kim hoàng đế Triệu Cấu lại một lần nữa cầu hoà vô điều kiện, bày ra tư thái nhu nhược hèn nhát, tất sẽ khiến cho quần thần nội ngoại cùng đa số thần dân bất mãn. Đương lúc chiến cuộc bất lợi, lòng người bất mãn dồn nén đến một nông nỗi nhất định, danh vọng của đương kim thánh thượng sẽ rơi xuống điểm thấp nhất.

Mà lúc đó, chính là thời cơ ngươi chờ đợi, có đúng hay không?

Giống như thủ đoạn đẫm máu, quyết liệt cứng rắn của ngươi ngày ấy khi thu phục thủy quân Lý Bảo, trong quân đội của triều đại Nam Tống, võ tướng đầu nhập vào phe huyết thống Thái Tổ của ngươi tuyệt đối không ít. Mà văn thần trong triều, còn có rất nhiều môn đồ Khổng Mạnh ủng hộ dòng chính thống, nghĩ đến huyết mạch của Thái Tổ, cho nên những kẻ âm thầm chi trì cho hậu duệ của Thái Tổ là ngươi càng nhiều không đếm xuể… Thu phục nhân tâm, chiêu binh mãi mã, mục đích của Thái Hoa ngươi là gì, ta sao lại không rõ?

Non sông gấm vóc, giang sơn như họa, chính là thứ ngươi muốn, có đúng hay không?

Đại Tống năm Khai Bảo thứ chín, Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa mưu hại huynh trưởng, gây nên vụ án bí ẩn ly kỳ dưới ánh nến tiếng rìu (*), cướp được thiên hạ Đại Tống về tay, con cháu truyền thừa tới hai trăm năm. Hiện hôm nay, ngươi thân là ngũ thế tôn của Triệu Khuông Dận, được truyền lại huyết mạch của Thái Tổ, muốn đem giang sơn này, thiên hạ này, tất cả đều cướp về, có đúng hay không?

(* Năm 976 sau công nguyên, Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận đột ngột băng hà, trong chính sử không hề có ghi chép nào chứng tỏ ông có bệnh, mà dã sử lại ghi lại nhiều truyền thuyết khác nhau, vì vậy nguyên nhân qua đời của ông trở thành một bí ẩn ly kỳ trong lịch sử. Trong đó, “Tẫn Dư Lục” ghi lại, Triệu Quang Nghĩa (tức Triệu Khuông Nghĩa) thèm muốn phi tử Hoa Nhị phu nhân của Thái Tổ đã lâu, thừa dịp nửa đêm Triệu Khuông Dận bị bệnh ngủ mê không tỉnh chọc ghẹo Hoa Nhị phu nhân, bị Triệu Khuông Dận giật mình tỉnh lại bắt gặp, dùng rìu ngọc chém, nhưng lực bất tòng tâm, chém trúng mặt đất. Triệu Quang Nghĩa giết Triệu Khuông Dận, bỏ trốn về phủ. Tuy nhiên truyền thuyết “ánh nến tiếng rìu” này để lại rất nhiều nghi vấn vì: theo lễ nghi cung đình, Triệu Quang Nghĩa sao có thể được phép ngủ lại trong cung? Thái giám, cung nữ lẽ ra không nên rời khỏi hoàng đế, ở thời điểm Thái Tông bị bệnh, sao bên cạnh lại không có một người? Bóng người lộn xộn, tiếng rìu kỳ lạ, cùng với tiếng hô “Giỏi lắm, giỏi lắm” (Hảo tố, hảo tố) của Triệu Khuông Dận chứng tỏ, đây có thể là một cuộc mưu sát đã được trù tính từ lâu?

Sau khi lên ngôi, Triệu Quang Nghĩa không đợi qua một năm (điều mà các hoàng đế khác kế vị thường làm) mà chỉ hai tháng đã thay đổi niên hiệu. Bức sát con trưởng Đức Chiêu của Triệu Khuông Dận (lúc đó đã 30 tuổi). Con nhỏ của Triệu Khuông Dận là Đức Phương (gần 26 tuổi) cũng bệnh nặng mà chết một cách kỳ lạ. Sau khi Triệu Khuông Dận chết, vợ của Triệu Khuông Dận qua đời cũng không được chôn cất theo nghi lễ hoàng hậu. Những điều này khiến sử sách và hậu thế có cái nhìn không mấy thiện cảm với Triệu Quang Nghĩa. Ngay cả chính con cháu của Triệu Quang Nghĩa cũng tin rằng ông ta đã “giết anh đoạt ngôi”. Bằng chứng là Triệu Cấu đã truyền ngôi cho cháu đời thứ bảy của Triệu Khuông Dận là Triệu Thận chứ không truyền ngôi cho huyết mạch Triệu Quang Nghĩa.

P/s: truyền thuyết xung quanh việc Triệu Khuông Nghĩa kế thừa ngôi hoàng đế khá nhiều, mình chỉ tóm tắt các thông tin mình lượm lặt được (mà có vẻ liên quan với bộ truyện này) thôi, không phải toàn bộ. Có thể Triệu Khuông Dận đã thật sự truyền ngôi cho đệ đệ mà không phải con trai của mình, hoặc có thể Triệu Quang Nghĩa cũng không ác như lời đồn. Dù sao truyền thuyết cũng chỉ là truyền thuyết.)

Ngươi đã từng ẩn nhẫn mưu toan, cho đến hôm nay gây dựng bá nghiệp hoàng đồ… Là tri kỷ của ngươi, ta sao lại không hiểu, không rõ ràng?

Nhưng mà, ta thà rằng không hiểu…

Hơi ngẩng đầu lên, Tử Du lẳng lặng nhìn Thái Hoa đang đứng trước người mình, tim đập loạn nhịp. Lát sau, y mở miệng, giọng nói vô lực: “Thái Hoa, ngươi có còn nhớ không? Ta từng khuyên ngươi đừng nên học Tông sư Trần Bác của Đạo môn các ngươi, đừng hoang phí một thân bản lĩnh gần như thiên nhân. Ngươi là hoàng tộc Đại Tống, là thiên chi kiêu tử được mọi người ngưỡng mộ, càng nên góp một phần sức lực vì thiên hạ thương sinh.”

“Ai nha, Tử Du ngươi nói không sai. Cho nên ta vui vẻ tuân mệnh, tự mình ra tay cứu vạn dân đang cảnh dầu sôi lửa bỏng. Ta đã vất vả lập nên công lao to lớn như vậy, Tử Du có phải cũng nên thưởng cho ta không?” Mắt phượng lưu chuyển, nụ cười biến mất trên môi Triệu Thuyên. Ngón tay siết chặt tóc Tử Du, hắn nhẹ nhàng kéo, Tử Du bị đau, thuận thế ngửa đầu, bờ môi chợt ấm nóng, môi hắn đã bao trùm lên, trằn trọc tương tư, triền miên không dứt.

“Ngươi…” lời của Tử Du bị nuốt chửng giữa nụ hôn, muốn đẩy hắn ra, nhưng không hiểu sao cánh tay lại mềm yếu vô lực. Triệu Thuyên uống chút rượu, hương rượu ngọt ngào cũng theo nụ hôn mà tràn ngập khắp mũi miệng, lâng lâng muốn say, lưu luyến không rời, ngay cả linh hồn cũng theo đó mà trầm mê.

Nụ hôn quá mức thân mật, bờ môi quá mức bỏng cháy.

Đừng nói y là một người đã lập chí xuất gia tu hành, cho dù là giữa hai nam tử hảo hữu, cũng thật không nên hết lần này đến lần khác làm ra hành vi bội đức du lễ như vậy.

Vậy mà Thái Hoa Hầu Triệu Thuyên lại làm được như thể đương nhiên, đường đường chính chính, không có một chút đuối lý. Kiêu ngạo tùy hứng, phóng túng làm càn, không hề đặt quy củ lễ pháp của thế gian vào mắt. Nam tử mặt mày diễm sát này, tập hợp quang vinh thiên hạ vào một thân, tự cao tự đại, giống như cả thế gian này đều do hắn làm chủ.

Cho dù là một người tu hành thanh tâm quả dục như y, đối mặt với khí thế ngoài ta ra còn ai này, cũng không tránh khỏi bị rung động. Huống chi hắn một thân phong tư tuyệt tục, tựa như thần tiên giữa biển người phàm, dù là ai cũng đều bị chinh phục. Tử Du y tuy rằng vọng xưng Thánh cư sĩ, bất quá cũng chỉ là một phàm phu tục tử, hòa thượng gà mờ mà thôi, sao có thể là ngoại lệ?

Ái dục đối với con người, như cầm đuốc ngược gió mà đi, tất có ngày thiêu cháy tay mình.

Y đã từng không tin, đã từng muốn thử thách thiền tâm thanh tịnh của mình, nhìn mình sa vào ái dục sẽ có kết cục như thế nào… Vì vậy mới dung túng mặc cho Thái Hoa tiếp cận y, trêu đùa y, thân mật gắn bó, không chút tị hiềm.

Vì vậy, ngày hôm nay kết quả đã phơi bày, mọi thứ đều rõ ràng, bụi bặm lắng xuống, nước chảy đá lộ.

…Đùa với lửa tự thiêu, y đã thiêu cháy tâm của chính mình.

Nụ hôn trên môi càng thêm càn rỡ. Triệu Thuyên ôm lấy y, hơi thở nóng rực, nụ hôn phớt qua đã biến thành hôn sâu, đầu lưỡi linh hoạt uyển chuyển, tiến vào khoang miệng y tuỳ ý phóng túng, liếm hút, khiêu khích vô cùng thành thạo.

Hồn tiêu ý nhuyễn, tứ chi vô lực. Y hổn hển thở dốc, con ngươi đen ôn nhuận phủ kín một tầng sương mù. “Thái Hoa, ngươi …”

“Suỵt.” Triệu Thuyên ôm chặt vòng eo của y, ghé vào bên tai y ôn nhu thì thầm: “Đừng nói nữa…”

Đã quá hiểu nhau, cho tới nước này, kỳ thực hai người đều biết đối phương muốn nói gì, muốn làm gì.

Tử Du nhắc lại lời khuyên của mình với hắn, chính là nỗ lực cuối cùng của y, y không muốn thấy Triệu Thuyên vì tranh đoạt thiên hạ mà gây nên một hồi huyết vũ tinh phong giữa vương đình Đại Tống, nhắc nhở hắn vạn sự đếu nên nghĩ đến lê dân bách tính.

Triệu Thuyên lại cố ý hiểu sai, cố ý xuyên tạc lại lời nói của y, nói chính mình là vì bách tính thương sinh mà mưu tính hành động, những việc hắn làm, tất cả đều là vì chỉnh đốn sơn hà, bình định càn khôn.

…Ai cũng không sai. Thế nhưng, lập trường trái ngược.

Ai mới là người thắng cuối cùng?

Hé mở mắt, xuyên qua màn lụa đung đưa nhìn ra ngoài đình, Tử Du thấy trên mặt nước hồ trong vắt của Thiên Nhất Trì ảnh ngược một vầng trăng sáng. Yên lặng tĩnh mịch.

Y giương mắt, ánh mắt y bỗng trở nên thanh minh rất nhiều, thẳng tắp nhìn vào đôi mắt phượng diễm mị uy nghiêm của Triệu Thuyên, khẽ nói: “Thái Hoa… Chẳng lẽ ngươi không sợ, lúc ngươi trải qua trăm ngàn khổ nhọc đoạt được ngôi vị hoàng đế thì đại quân Kim quốc đã qua sông, cho dù ngươi lên làm hoàng đế cũng sẽ chỉ là một cái thùng rỗng trên danh nghĩa?”

“Ôi chao, Tử Du, ngươi nói lời này không khỏi quá xem thường ta. Hoàn Nhan Lượng chí lớn nhưng tài mọn, là một tên hoàng đế ngu ngốc, sao có thể làm khó dễ được ta?” Mắt phượng toát lên ý cười tự tin, giọng nói của Triệu Thuyên ôn nhu, nhưng ngữ khí chắc như đinh đóng cột: “Một khi quân quyền Đại Tống đều nằm trong tay ta, bản hầu chắc chắn sẽ đánh cho bọn người Kim man rợ đó chạy về với quê hương hoang dã của chúng, giành lại non sông.”

“…Như vậy, trước đó thì sao? Trước khi ngươi đoạt được ngôi vị hoàng đế và quân quyền Đại Tống thì sao?”

Ánh mắt trở nên thâm thúy, Triệu Thuyên mím môi nói: “Thanh lọc là cần thiết.”

“Nói cách khác, để trở thành kỳ vọng của mọi người trong triều, có được sự duy trì của lão thần các phái, nhân tâm dân gian, ngươi sẽ để mặc cho thuộc hạ tướng lĩnh ngồi yên nhìn Đại Tống không ngừng bại trận thối lui trước gót sắt của quân Kim? Thậm chí là lệnh cho bọn họ cố ý tháo chạy, khiến dân chúng oán phẫn bất mãn với triều đình hiện tại?” Hoàng thượng Triệu Cấu hiện nay tuy không phải là một hoàng đế tốt lành gì, thay đổi một người ngồi trên ngôi vị hoàng đế cũng không có gì không tốt, thế nhưng khoanh tay ngồi nhìn chiến sự thất lợi, cho dù chỉ là một quãn thời gian ngắn ban đầu, khiến cho rất nhiều người vô tội phải chết, bách tính trôi dạt khắp nơi, những người đó phải làm sao bây giờ?

“…Triều chính thế sự vốn là như vậy. Muốn thành được nghiệp lớn, sao có thể không có hy sinh? Mưu toan rồi hành động, quyết đoán dứt khoát, ra tay tàn nhẫn đều là những điều mà kẻ muốn trở thành vương giả phải giác ngộ.” Triệu Thuyên lảng tránh ánh mắt của y.

“Ngươi xác định đó là điều cần thiết sao?” Tử Du thở dài, “Ngày rằm tháng bảy tết Trung Nguyên, ngươi vì sao muốn ta thả đèn cùng ngươi?” Sớm nên nghĩ đến, đêm đó Triệu Thuyên dường như có tâm sự, ngôn từ mập mờ, thậm chí còn kích động hôn y, đánh vỡ sự cân bằng bấy lâu nay hai người đều im lặng hiểu rõ…

Đó là bởi vì, lòng của Thái Hoa hầu cũng rối loạn, phải không?

Chiến tranh một khi bắt đầu, tất phải xương trắng đầy đồng, máu chảy thành sông, trong loạn thế lại có thêm không biết bao nhiêu oan hồn dã quỷ? Nếu lòng hắn thật sự cứng rắn như sắt đá, không gì có thể lay chuyển, sao có thể tự mình thả xuống chiếc đèn trong đêm Trung Nguyên kia?

Đối mặt với câu hỏi của y, Triệu Thuyên nghẹn lời. Một lát, hỏi ngược lại…

“Người đời đều nói, Thanh tịnh thiền tâm Thánh cư sĩ lòng mang thiên hạ, độ lượng từ bi. Mặt khác, y và người đứng đầu Thế ngoại ngũ tuyệt Thái Hoa Hầu là tri kỷ tâm đầu ý hợp, ‘tình nghĩa ái mộ, sánh như kim thạch, dù xa nghìn dặm, vẫn tri kỷ tri âm.” (*)

(* Trích từ Đường Tài Tử Truyện, ca ngợi tình bạn của Lý Bạch và Nguyên Chẩn)

“Như vậy, người trong thiên hạ và Thái Hoa Hầu, Thánh cư sĩ Tử Du sẽ chọn ai?” Mắt phượng mang theo ý cười đưa tình liếc qua, thản nhiên tự đắc, phảng phất như không quan tâm. Nhưng mà Tử Du nhìn thấy sâu trong đáy mắt hắn đang tràn ngập lo lắng không yên.

… Thì ra, có một câu nói Triệu Thuyên rốt cuộc không lừa y.

“Tình ý của ta đối với Tử Du, là thiên chân vạn xác. Ngươi có thể hoài nghi bất cứ điều gì, chỉ duy nhất không được hoài nghi điều này.”

Chẳng qua là, hôm nay lời thề thốt đó lại trở thành một vết thương trí mạng ở nơi sâu nhất trong tâm hồn.

Tử Du im lặng một lúc lâu, chậm rãi ngẩng đầu, vẻ mặt hờ hững: “Đã là Thánh cư sĩ… lựa chọn, đương nhiên là người trong thiên hạ. Một người và cả thiên hạ, ai nặng ai nhẹ? Không cần nghi ngờ. Ngươi căn bản vốn không nên hỏi.” Giọng điệu bằng phẳng, nhưng ý tứ lại tàn khốc không gì sánh được…

Đó là đại ái đối với cả thế gian, đó là đại từ bi phổ độ chúng sinh, nhưng mà đồng thời cũng đem thân phàm phu tục tử, thất tình lục dục của y, hết thảy đều vứt bỏ.

Thiền tâm của y đã từng như trăng nơi đáy giếng, chỉ vì một người mà dậy sóng. Hôm nay lại khôi phục yên tĩnh.

Trăng sáng treo cao, Thiên Nhất trì lăn tăn sóng biếc, bóng trăng xa vời. Cho dù, ngươi có vớt được ánh trăng nơi tay, bất quá cũng chỉ là một khoảnh khắc ôn tồn mà thôi. Bởi vì, nơi mà ánh trăng sáng trong kia chiếu rọi, chung quy là khắp thế gian đại địa.

Dứt lời, Thánh cư sĩ vung tay áo, xoay người dứt khoát rời đi.

Ngay khoảnh khắc y xoay người đi, đôi mắt phượng diễm mị của Thái Hoa Hầu ảm đạm như tro tàn.

Đùa với lửa tự thiêu, không chỉ có Thiền tâm dao động Thánh cư sĩ, tâm cao khí ngạo Thái Hoa Hầu cũng là như vậy.

Tựa như sáng và tối, ngày và đêm.

Chạm vào thì rung động, dứt bỏ thì đau đớn, ai cũng không thể may mắn tránh khỏi.

0 comment:

♥ Nói gì đi chứ...

( ̄▽ ̄) | (⊙﹏⊙) | (; ̄Д ̄) | ( ̄3 ̄) | (ノ≧益≦)ノ | (¬д¬。) | (〜 ̄▽ ̄)〜 | (●ω●) | (= ̄ω ̄=) | ㄟ(^∇^)ㄏ | (づ ̄ ³ ̄)づ♥ | щ(゚Д゚щ) | (屮゚Д゚)屮 | \("▔□▔)/ | (╬ ̄皿 ̄)凸 | (╯‵□′)╯︵┻━┻ | ಠ_ಠ | (≧∇≦) | (*´▽`*) | ( ̄ー ̄) | (●^o^●) | ╮[╯▽╰]╭ | O(∩_∩)O | ╮(╯_╰)╭ | ╮( ̄▽ ̄")╭ | *^﹏^* | Σ( ° △ °|||) | ~(‾▿‾~) | [* ̄︶ ̄]y | (⊙o⊙) | (─‿‿─) | (¯―¯٥)